KHÁM PHÁ NHỮNG ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH Ở LẠNG SƠN
Lạng Sơn, tỉnh miền núi phía Đông Bắc của Tổ quốc chắc nhiều bạn sẽ nghĩ tới ngay địa danh Mẫu Sơn, nơi thường xuất hiện băng tuyết trong một vài năm trở lại đây và đã thu hút được rất nhiều khách du lịch. Tuy nhiên mảnh đất này còn có nhiều vô cùng những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử khác mà chắc nhiều bạn chưa từng biết. Tâm Phát Travel đã tổng hợp các địa điểm du lịch ở Lạng Sơn để các bạn sắp xếp vào trong hành trình du lịch của mình nhé.
1. Thành Phố Lạng Sơn
1.1. Chùa Tiên – Giếng Tiên
Chùa Tiên nằm trong lòng núi Đại Tượng, thuộc địa phận phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 1 km.
Ngoài tên gọi Chùa Tiên, động còn có tên gọi khác là Song Tiên. Động nằm ở chính giữa lòng núi Đại tượng, là một động lớn, có vòm cao, rộng; trong động có hàng nghìn nhũ đá tạo nên muôn hình, muôn vẻ. Tất cả đều lung linh, sống động như trong một thế giới thần tiên.
Theo các nguồn sử liệu, Chùa Tiên được lập từ thời Lê Hồng Đức (khoảng từ năm 1460 – 1497). Khởi nguyên là một ngôi chùa nhỏ nằm cạnh Giếng Tiên bên sườn núi Đèo Giang – Văn Vỉ (cách cửa sau động chùa Tiên khoảng 200m). Sau đó, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, do bị xuống cấp, Chùa được chuyển vào trong động Song Tiên.
Động chùa Tiên có hệ thống văn bia với 13 bia Ma Nhai. Đây là nguồn sử liệu quan trọng về di tích và có giá trị về văn học nghệ thuật do các văn nhân thi sĩ, quan lại dưới các triều phong kiến Việt Nam xưa lưu lại. Nội dung chính là ca ngợi cảnh đẹp của núi Đại tượng và ghi lại những lần trùng tu tôn tạo di tích của người xưa. Đây là 1 trong 8 cảnh đẹp được Ngô Thì Sỹ ca ngợi trong bài thơ “Trấn Doanh bát cảnh” được ông ghi dấu tại động chùa Tiên.
Chùa Tiên không chỉ là một di tích danh thắng mà còn là một địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, là nơi thờ Tiên, thờ Phật, Thánh Mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc. Chùa có cung Tam Bảo với hệ thống tượng phật bài trí khá hoàn chỉnh, có cung thờ Mẫu, thờ vọng đức Thánh Trần…
Hàng năm, vào ngày 18 tháng Giêng, nhân dân trong vùng lại mở hội lớn tại Chùa Tiên. Đây là nơi thỏa mãn nhu cầu tâm linh, là nơi gặp gỡ, giao lưu tình cảm, nơi diễn ra các trò chơi, trò diễn dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn./.
Giếng Tiên
Đằng sau núi Voi – Chùa tiên ở lưng chừng núi trên mặt bằng đá rộng đó là Giếng tiên, miệng giếng rộng 20cm có mạch nước quý chảy quanh năm.
1.2. Đền Kỳ Cùng
Đền Kỳ Cùng (còn có tên là đền Quan Lớn Tuần Tranh) nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng, thuộc địa phận phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn. Đền có một vị thế rất đẹp, nằm ở trung tâm buôn bán sầm uất của thành phố Lạng Sơn. Mặt trước đền quay ra phía bờ sông Kỳ Cùng.
Lịch sử của Đền còn gắn với truyện kể về quan lớn Tuần Tranh, được triều đình nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, trong thời gian ở tại Lạng Sơn, ông chỉ huy đánh giặc bị thua, quân lính thiệt mạng rất nhiều, ông lại bị vu cáo vào tội dâm ô, đành nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sạch, ông được thần linh hóa thành đôi rắn (ông Cộc – ông Dài) làm vị thần sông ngự tại đền Kỳ Cùng. Về sau, nỗi oan khuất của ông được một vị tướng nhà Lê là Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài (được thờ tại đền Tả Phủ) chứng minh, hóa giải. Vì vậy mới có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch giống như đền Tả Phủ), phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài. Điều này giải thích cho sự liên quan mật thiết của hai lễ hội đền Kỳ Cùng – T Phủ.
Trong đền có bến đá Kỳ Cùng là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong “Trấn doanh bát cảnh” xưa Ngô Thì Sỹ gọi với cái tên Kỳ Cùng thạch độ. Sở dĩ như vậy là vì theo sử sách chép lại, ngày xưa bất cứ cuộc hành quân hay cuộc hành trình nào của các sứ giả qua lại Trung Quốc cũng đều phải qua nơi nay. Thuyền bè san sát, hai bờ sông lúc nào cũng tấp nập đông đúc vì dân chúng hoặc quan quân hội tụ. Khúc sông Kỳ Cùng ở đoạn này có nhiều tảng đá chắn ngay giữa dòng sông, đá lô nhô trên mặt nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông, lúc lên lúc xuống tạo thành những lớp sóng tung bọt trắng xóa, trào khắp một dải tràng giang, trông rất ngoạn mục. Tương truyền các sứ thần của Việt Nam mỗi lần đi sứ sang Trung Quốc đều dừng chân tại bến đá, sửa soạn lễ vật lên thắp hương tại đền Kỳ Cùng, cầu cho chuyến đi được bình an, công thành danh toại.
Lễ hội đền Kỳ Cùng gắn liền với lễ hội đền Tả Phủ (thành phố Lạng Sơn), kéo dài từ ngày 22 đến ngày 27 tháng Giêng hàng năm.
Với những giá trị văn hóa và tâm linh đặc sắc, đền Kỳ Cùng có một vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Xứ Lạng và trở thành điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, hấp dẫn du khách thập phương./.
1.3. Thành nhà Mạc - Núi Tô Thị
Di tích thành nhà Mạc nhìn từ trên cao
Từng là căn cứ quân sự nhằm chống lại nhà Lê - Trịnh vào thế kỷ 16-17, hiện nay thành nhà Mạc chỉ còn lại khoảng 300 m tường thành kiên cố.
Thành nhà Mạc thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, là di tích lịch sử kiến trúc quân sự phản ánh thời kỳ phong kiến Việt Nam suốt từ cuối thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 17. Thành là căn cứ quân sự hiểm yếu chắn con đường độc đạo nối từ Ải Bắc xuống phía Nam do Mạc Kính Cung xây dựng nhằm chống lại Lê - Trịnh.
Dựa vào thế của 3 ngọn núi cao hàng chục mét, trong đó có núi Tô Thị, Lô Cốt, Mạc Kính Cung khi xưa đã cho xây dựng những đoạn tường thành, bao quanh một bãi đất trống bằng phẳng rộng hàng chục nghìn m2. Dấu tích hiện nay của thành gồm 2 đoạn tường khoảng 300 m, mặt thành rộng khoảng một mét, xây bằng những khối đá lớn giữa hẻm núi. Bức tường thành phía Tây Bắc, xây bằng đá hộc miết mạch vôi cát có chiều dài 65 m, chiều cao 4 m, có cửa công, lỗ châu mai, cửa ra vào. Bức phía Đông dài 75 m cũng có cổng ra vào, 15 lỗ châu mai, 7 cửa công. Chất liệu kết dính những khối đá hộc lớn lại với nhau là mật mía và mật ong.
Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng nhìn về phương xa
Thành nhà Mạc dựa vào núi nàng Tô Thị, nằm trong quần thể di tích được đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Năm 1962, thành được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia; năm 2010 được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.
Trên đỉnh núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu có tảng đá tự nhiên giống hình người phụ nữ bồng con nhìn về phương xa. Từ xưa, tảng đá hình người đã được gắn với truyện cổ tích nàng Tô Thị bồng con chung thủy đứng chờ chồng đi đánh trận Phương Bắc. Chờ mãi không được, nàng cùng con đã hóa đá. Vì thế nên người đời cững gọi tảng đá là nàng Tô Thị. Nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Nhị, Tam Thanh, truyền thuyết về Nàng Tô Thị đã đi vào tâm khảm của dân tộc Việt Nam thiên nhiên đã tạo ra hình tượng người mẹ ôm con đứng chờ chồng trên đỉnh núi cao như một biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam. Trải qua bao năm tháng, do tác động của thiên nhiên và con nguời, di tích này đã bị hủy hoại. Tỉnh Lạng Sơn đã cho dựng lại như nguyên bản để gìn giữ một di tích đã đi vào tình cảm của người dân Việt Nam
1.4. Động Nhị Thanh – Chùa Tam Giáo
Là một điểm di tích nằm trong quần thể di tích danh thắng Nhị-Tam Thanh – Núi Tô Thị – Thành Nhà Mạc,
Động Nhị Thanh được danh nhân Ngô Thì Sỹ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc Trấn Lạng Sơn từ năm 1777 – 1780. Ông đã có công lao to lớn trong việc mở mang ruộng đất, yên ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian ngao du sơn thuỷ trong vùng Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và cho hưng công xây dựng chùa Tam Giáo, Đình duyệt Quân, Thạch Miên Am, Thụy Tuyền Hiên, Trai Táo. Ngô Thì Sỹ là người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đỗ đạt làm Quan, để tưởng nhớ đến quê hương, Ông đã dùng hai chữ Thanh của quê hương đặt cho tên hiệu của mình là: Nhị Thanh cư sĩ và sau này khi phát hiện ra động Nhị Thanh, Ông đã dùng chính tên hiệu của mình đặt tên cho động là Động Nhị Thanh.
Phía bên phải động Nhị Thanh là Chùa Tam Giáo được Ngô Thì Sỹ hưng công xây dựng năm Kỷ Hợi (1779) thờ Nho Giáo, Đạo Giáo và Phật Giáo (tam giáo đồng nguyên). Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Công Đồng, Cung Tam Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo… với hệ thống tượng thờ khá phong phú.
Bên trái chùa Tam Giáo là đường vào động Nhị Thanh và suối Ngọc Tuyền trong vắt ẩn hiện dưới lùm cây trông thật nên thơ hữu tình. Phía ngoài động trên cao có dòng chữ Hán “Nhị Thanh Động” với khổ chữ lớn khắc chìm vào vách đá. Vào phía trong động trên vách bên phải là hệ thống bia Ma Nhai với 20 văn bia đủ mọi kích thước xen kẽ nhau. Nội dung bia chủ yếu ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người Xứ Lạng, ghi lại việc phát hiện, tạo dựng động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo của các bậc tiền nhân, trong đó có bài “Nhị Thanh động phú” tức bài phú động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ viết năm 1779 cùng bài thơ tự tán của Ông khi mới phát hiện và đặt tên cho động Nhị Thanh và các bài viết của tiến sĩ Lê Hữu Dung – Phụng sai Đốc đồng xứ Lạng Sơn tham hiệp quân vụ năm 1780 cùng nhiều bài viết của các danh nhân thi sĩ khác.
Đi thêm khoảng 100m, qua 2 chiếc cầu kiều bắc qua những khúc suối quanh co đã mở ra một không gian rộng lớn với nóc hang cao vút, có cửa thông thiên, phía trong có một thác nước đổ xuống theo khe đá hoà nhập cùng với suối Ngọc Tuyền chảy ngầm dưới nền Động, tạo nên những âm thanh huyền bí. Vào năm 1779, Ngô Thì Sĩ viết trong “Bài Ký Động Nhị Thanh” rằng: “Người đi thuyền phải cúi rạp xuống, dùng tay vịn vào vách đá đẩy thuyền mới qua được và do suối chảy dưới nền động nên không thấy dòng suối đâu”.
Dưới chân thác nước, Ngô Thì Sĩ cho tôn một thềm đất cao để làm sân khấu. Tại đây ông đã chọn làm nơi trung tâm vui chơi giải trí trong ngày mở hội ăn mừng sau khi xây dựng xong chùa Tam Giáo và cải tạo động Nhị Thanh, sau này nơi đây trở thành nơi hội họp biểu diễn văn nghệ của nhân dân trong những năm đế quốc Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc nước ta. Trên nóc động có khe nhỏ ánh mặt trời rọi qua, được người dân gọi là hang Thông Thiên. Trong “Bài Phú Động Nhị Thanh” có câu:
“Hang gọi tên Thông Thiên
Ánh mặt trời hơi đỏ”
Ngô Thì Sĩ còn cho khắc ba chữ lớn trên nóc hang là “Hang Thông Thiên”.
Suối Ngọc Tuyền
Ngày 28 tháng 7 năm 1779 âm lịch, Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội tại nơi đây, trên chùa Tam Giáo thì tế lễ, trong động Nhị Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7 ngày 7 đêm. Trong bia Ma Nhai “Bài ký động Nhị Thanh” có ghi về việc này như sau: Đêm đầu mở hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông Thiên vòng quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm không còn sợ hãi nữa; lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường múa rối nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc thì không thấy đâu nữa nên mọi người dự hội ai cũng cho là lạ. Sau đó Ngô Thì Sĩ đã cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa động Nhị Thanh để ghi nhớ hai con vật linh thiêng.
1.5. Động Tam Thanh – Chùa Tam Thanh
Động Tam Thanh và chùa Tam Thanh là di tích lịch sử văn hoá, danh thắng nổi tiếng của xứ Lạng với câu ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Trong động Tam Thanh có chùa, gọi là chùa Tam Thanh, còn có tên gọi khác là chùa Thanh Thiền. Trong cuốn “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử quán triều Nguyễn có viết rằng: “Chùa này nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, cửa mây nhũ đá trong sạch, không bụi trần. Người địa phương cùng người Minh Hương tô tượng phật phụng thờ, lại có tên nữa là Chùa Thanh Thiền”.
Chùa Tam Thanh nổi tiếng bởi những giá trị văn hoá nghệ thuật của di tích. Hiện nay trong chùa còn có một hệ thống bia Ma Nhai khá phong phú có giá trị về mặt sử liệu và văn hoá nghệ thuật do các văn thân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử lưu lại. Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia được Binh Sứ Bắc Quân Đô Phủ, Đô Đốc Thiên Sự Vũ Quận Công Vi Đức Thắng tạc khắc vào thời Lê – Vĩnh Trị thứ 2 (1677) bia có tên là: “Trùng tu Thanh Thiền Động” nội dung bia ghi lại việc hưng công trùng tu di tích này của ông. Tấm bia cổ tiếp theo là của tác giả Ngô Thì Sĩ tạc vào năm Kỷ Hợi (1779) là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của di tích. Ngoài ra là hai bài thơ của hai vị quan triều Nguyễn (Đoàn Đình Duyệt và Tôn Thất Tố) cho tạc khắc khi theo giá vua khải Định năm 1918 ra tuần thú miền Bắc, nội dung ca ngợi vẻ đẹp danh thắng này. Tại di tích hiện còn có tấm bia chữ Nôm do tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng Vận viết năm 1924, bia có nội dung ca ngợi cảnh đep của di tích và được phiên âm với nội dung:
“Xanh xanh xanh ngắt trấn thành Tây
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
Gió mây đưa đón thoảng làn mây
Giá trong bể hoạn gương còn tỏ
Lửa ngất non tình đá cũng ngây
Trải mấy tang thương lầm bụi tục
Rượu bầu thơ túi vẫn là đây”
Chùa Tam Thanh là một ngôi chùa đặc biệt, được bố trí trong hang đá, không có kiểu kiến trúc giống như những ngôi chùa khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể thấy hệ thống thờ tự được sắp xếp theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Đặc biệt trong chùa còn lưu giữ bức phù điêu Adiđà có niên đại vào thế kỷ XVII được tạc theo thế đứng vào vách đá trong hình một lá bồ đề là một nét độc đáo của di tích.
Đi sâu vào trong Động, ở khu trung tâm có hồ Âm Ty, nước không bao giờ vơi cạn, hồ tuy nhỏ nhưng nước chảy suốt ngày đêm, trên các trần hang có nhiều nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa với những hình tượng sinh động kỳ bí: cây Ngô Đồng, Tiên Ông, Sư Tử, Voi… Đi vào bên trong ta bắt gặp một sân khấu nhỏ, xung quanh có những nhũ đá nhiều hình thù khác nhau do thiên nhiên tạo nên, có hai cửa thông thiên, ánh sáng từ hai cửa này soi rọi vào động làm cho những nhũ đá đẹp lạ thường. Cạnh khu vực sân khấu có lối dẫn lên cổng trời, tại đây ta có thể đứng ngắm nhìn quang cảnh của một vùng nông thôn quanh khu vực di tích. Phía ngoài cửa động Tam Thanh hiện nay còn có nhà sàn và mô hình cọn nước, cối giã gạo đặc trưng của người dân tộc Tày Lạng Sơn.
1.6. Chợ Đông Kinh và chợ đêm Kỳ Lừa
Chợ Đông Kinh là nơi tập trung khá nhiều hàng hóa từ Trung Quốc về
Chợ Đông Kinh là trung tâm mua bán lớn nhất thành phố Lạng Sơn. Chợ Đông Kinh với 3 tầng, tầng 1 bán đồ điện tử, tầng 2 bán hàng tạp hóa, tầng 3 bán hàng thời trang. Trong lịch sử đô thị cổ Lạng Sơn khu vực chợ Đông Kinh thuộc “Bạc dịch trường Vĩnh Bình” vốn là nơi trao đổi thương mại của thương gia hai nước Việt – Trung. Ngày nay chợ được xây dựng khang trang, cảnh mua bán tấp nập người xe bên dòng Kỳ Cùng uốn lượn. Đây là địa điểm được nhiều du khách lựa chọn khi đến Lạng Sơn.
Chợ Đêm Kỳ Lừa mở cửa từ 7h đến 23h chuyên bán các loại hàng hóa phục vụ khách du lịch, không chỉ thuần túy là nơi giao lưu trao đổi hàng hóa mà còn là nơi gặp gỡ kết bạn thể hiện bằng những nét văn hóa cổ truyền một cách sống động. Chợ mang đậm bản sắc miền biên cương sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách khi đến với Lạng Sơn.
1.7. Đoàn Thành (cổ) Lạng Sơn
Thành cổ Lạng Sơn là một di tích kiến trúc quân sự, có vị trí rất quan trọng trong việc trấn giữ phòng thủ quân sự nơi cửa ngõ của đất nước. Đoàn Thành được xây dựng đã trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Lạng Sơn thời phong kiến.
Đoàn thành Lạng Sơn theo như miêu tả của các sách xưa thì có 4 cửa ở 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, xung quanh thành có 19 điểm canh. Trải qua thời gian, nay Thành đã không còn nguyên vẹn, thực tế chỉ còn lại đoạn tường thành ở phía nam núi Hang Dê chạy ra Tổ Sơn và bức tường bên trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn chạy sang phía quốc lộ 1A cũ. Trong số 4 cửa thành xưa, nay chỉ còn 2 cửa (cửa Nam và cửa Tây), Vọng Lâu trên cửa Thành cũng đã bị đổ nát. Vết tích cho thấy, cổng Thành được xây dựng khá chắc chắn: Móng được xây bằng đá xanh, cổng xây vòm cuốn, chiều cao đến đỉnh là 5m, rộng 4m. Hiện nay cửa Tây của tòa thành đã bị xây bít lại, chỉ còn cửa phía Nam, có đường Nguyễn Thái Học chạy qua. Ở 4 cửa quay ra 4 hướng của Đoàn Thành là 4 ngôi đền: Cửa Đông, Cửa tây, Cửa Nam và Cửa Bắc, nơi thờ những vị thần trấn giữ, bảo vệ cho Thành.
Đến tham quan di tích Thành cổ Lạng Sơn, du khách sẽ được khám phá những nét độc đáo của kiến trúc Thành cổ xưa, tham quan và hành lễ tại các ngôi đền linh thiêng nằm ở xung quanh Thành./.
1.8. Núi Phai Vệ
Cột cờ núi Phai Vệ – niềm tự hào Xứ Lạng
Có một ngọn núi nằm ở vị trí trung tâm phía Đông thuộc phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, được bao trùm xung quanh là nhà cửa, đường phố. Ngọn núi sừng sững ở đó trải qua hàng trăm năm, không có nhiều thay đổi là mấy. Trải qua nhiều thời khắc lịch sử khắc nhau, có khá nhiều người tò mò, thắc mắc vì sao ngọn núi đó lại có thể tồn tại giữa khu đô thị ngày phát triển như vậy? Ngọn núi đó có ý nghĩa gì đối với miền biên giới xứ Lạng bình dị, hiền hòa này?
Ngọn núi này là một trong những di tích khảo cổ học có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học lớn của Xứ Lạng, được gọi là núi Phai Vệ. Đây là một trong những di tích khảo cổ học được nhắc đến nhiều cùng với các di tích khảo cổ khác ở các huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng,… Nơi đây, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết cổ sinh vật. Năm 1914, người Pháp đã từng đặt tên cho đường qua núi Phai Vệ là Đại lộ hang động. Ngày nay, địa danh Phai Vệ được đặt tên cho một con đường nằm ngay sát chân núi phía tây, có điểm đầu từ cổng phía Nam của chợ Đông Kinh, là ranh giới hành chính của hai phường Vĩnh Trại và Đông Kinh, như một cách để tôn vinh, khắc ghi những sự kiện lịch sử gắn với di tích.
Khi lên đến đỉnh núi, bạn có thể mở rộng tầm nhìn thỏa thích ngắm thành phố Lạng Sơn, đặc biệt là thành phố Lạng Sơn về đêm. Nhìn lá cờ đỏ sao vàng luôn tung bay phấp phới trên đỉnh núi Phai Vệ trở thành niềm tự hào mới của người dân xứ Lạng.
Đến với Lạng Sơn, mời các bạn dành chút thời gian để cùng tản bộ lên đỉnh cột cờ Phai Vệ ngắm toàn cảnh thành phố Lạng Sơn để có những trải nghiệm thú vị về miền biên giới thân thương này
2. Du lịch Bắc Sơn
2.1.Núi Nà Lay
Đỉnh núi Nà Lay ở độ cao khoảng 600m so với mực nước biển, là địa điểm lý tưởng để ngắm nhìn toàn cảnh thung lũng Bắc Sơn tuyệt đẹp từ trên cao. Vượt qua 1.200 bậc thang đá cheo leo nhưng khi lên tới đỉnh Nà Lay, mọi vất vả, mệt mỏi sẽ hoàn toàn bị xóa bỏ. Nơi đây còn có trạm vi-ba để bạn có thể nghỉ ngơi trong lúc săn ảnh.
2.2.Làng du lịch văn hóa Quỳnh Sơn
Làng Văn hóa du lịch cộng đồng xã Quỳnh Sơn thuộc xã Quỳnh Sơn (huyện Bắc Sơn). Toàn bộ ngôi làng hơn 400 ngôi nhà sàn của dân tộc Tày nằm gọn trong thung lũng Bắc Sơn, trông tổng thể làng như một bức tranh đa sắc màu có núi, có đồng ruộng mênh mông, suối Quỳnh Sơn trong xanh uốn lượn. Tới đây du khách nhận thấy sự hòa quyện của đời sống con người với vẻ đẹp của tự nhiên.
2.3. Thung lũng hoa Bắc Sơn
Thung lũng hoa Bắc Sơn nằm ở thôn Lân Khoang, xã Trấn Yên, là điểm tham quan tại Bắc Sơn không thể bỏ lỡ. Trăm loài hoa rực rỡ sắc màu, đua nhau khoe sắc trên các cánh đồng hoa chạy dài dưới chân những ngọn núi hùng vĩ.
2.4. Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn
Bảo tàng khởi nghĩa Bắc Sơn là nơi lưu giữ, bảo quản và trưng bày có hệ thống các tài liệu hiện vật về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Đồng thời, bên trong bảo tàng còn mô phỏng nơi cư trú của người tiền sử, và trưng bày các di vật khảo cổ được khai quật tại Bắc Sơn. Bảo tàng được xây dựng mô phỏng ngôi nhà sàn truyền thống của người Tày và không thu phí tham quan, một điểm tham quan tại Bắc Sơn giàu ý nghĩa lịch sử và văn hóa.
2.5. Thác Đăng Mò
Thuộc địa phận huyện Bình Gia, cách thị trấn Bắc Sơn chỉ khoảng 20km; dòng thác Đăng Mò mang vẻ đẹp nên thơ, lọt thỏm giữa núi rừng hoang sơ, huyền bí. Dọc theo triền thác là những tảng đá lớn nhỏ chất chồng lên nhau với nhiều hình thù độc đáo, phủ lớp rêu xanh. Những cây cổ thụ từ trên bờ vươn cành ra giữa lòng thác che bóng mát quanh năm, khiến khung cảnh nơi này thêm phần bí ẩn.
2.6. Đèo Tam Canh
Đèo Tam Canh thuộc khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn, nằm trên địa phận thôn Lân Luông, xã Long Đống, huyện Bắc Sơn. Đoạn đèo nằm trên quốc lộ 1B giáp ranh giữa 2 huyện Bắc Sơn và Bình Gia. Tại đây ngày 23/09/1945, tại khu vực sườn núi Co Chơi, quân dân Bắc Sơn đã lập chiến công phục kích tiêu diệt nhiều binh sĩ Nhật khi chúng kéo vào Bắc Sơn. Tới nơi đây du khách bước vào một vùng lịch sử, lắng nghe thanh âm của núi rừng và cảm nhận sự hào hùng ngân vang.
2.7. Đình Nông Lục - Đồn Mỏ Nhài
Đình Nông Lục nằm ở xã Hưng Vũ, huyện Bắc Sơn, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 90km theo tuyến đường quốc lộ 1B.
Tại đây, vào tối ngày 25 tháng 9 năm 1940, các đảng viên cộng sản trung kiên vừa thoát khỏi nhà tù của thực dân Pháp trở về đã họp bàn với các đồng chí đảng viên thuộc chi bộ Hưng Vũ về phương án khởi nghĩa, cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp ở đồn Mỏ Nhài – Châu lị Bắc Sơn. Tại cuộc họp đã ra Nghị quyết thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa và quyết định thời gian khởi nghĩa là 20h ngày 27/9/1940.
Đình Nông Lục là một di tích kiến trúc nghệ thuật được xây dựng từ đầu thế kỷ XX với kiến trúc theo kiểu chữ nhất, diện tích khoảng 180m2. Kiến trúc Đình là sự kết hợp giữa kiểu đình truyền thống đồng bằng Bắc Bộ với kiến trúc nhà sàn của người Tày Lạng Sơn.
Đến với di tích đình Nông Lục, du khách có thể tìm hiểu về giá trị lịch sử truyền thống cách mạng, giá trị văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và kết hợp tham quan các điểm di tích tiêu biểu khác trong cụm di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn./.
Từ đình Nông Lục du khách đi hơn 1 km là đến di tích đồn Mỏ Nhài. Đồn nằm trên một ngọn đồi cao, có vị trí quân sự chiến lược án ngữ con đường huyết mạch đi về 3 hướng chính là Bình Gia, Vũ Lăng, Bằng Mạc. Khi chiếm châu Bắc Sơn thực dân Pháp đã tập trung xây dựng đồn Mỏ Nhài thành một căn cứ quân sự mạnh hòng kiểm soát và sẵn sàng đè bẹp lực lượng du kích Bắc Sơn hoạt động quanh vùng. Tối ngày 27/9/1940 khoảng 600 quân dân du kích Bắc Sơn chia làm 3 hướng đồng loạt tấn công đồn Mỏ Nhài bằng các loại vũ khí thô sơ hoặc tự chế hoặc thu được của địch khiến chúng phải rút chạy, ta thu giữ nhiều súng ống, đạn dược, đốt bỏ tài liệu và ấn tín. Chiến thắng đồn Mỏ Nhài là dấu ấn quan trọng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, được đánh giá “là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng các lực lượng dân tộc Đông Dương”. Chiến thắng đã chứng minh tính đúng đắn của việc chuyển từ hình thức đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang của Đảng ta, cổ vũ mạnh mẽ các cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng sau này
2.8. Suối Mỏ Mắm
Cách trung tâm thị trấn Bắc Sơn 24 km, suối Mỏ Mắm (thôn Quang Trung I, xã Chiến Thắng) là điểm đến lý tưởng để nghỉ ngơi, tận hưởng không gian xanh mát và sản vật địa phương vào mỗi dịp cuối tuần cho các gia đình. Thực tế, suối tên là Keng Tao còn Mỏ Mắm là tên ngôi làng bên cạnh nên thường được người dân gọi chung. Suối đẹp nhất là vào những ngày tháng 9, khi nguồn nước suối trong vắt chảy ra từ vách núi tạo nên một khung cảnh trữ tình, điểm nhấn là đài phun nước nhân tạo giữa thác, khu vực lòng suối rộng, nước mát lành, có những chỗ sâu để khách tắm mát.
2.9. Hang Khuôn Bồng
Nằm tại xã Vũ Lễ, hang Khuôn Bồng dài khoảng 10km mang đến cho du khách trải nghiệm cực kỳ thú vị khi được khám phá cảnh quan còn nguyên vẻ hoang sơ với vô vàn các loại thạch nhũ. Bởi mới ít người biết đến địa điểm này nên không ngạc nhiên rằng nó rất vắng vẻ, nhóm bạn và gia đình hoàn toàn có thể yên tĩnh tận hưởng những giây phút thư thái cùng nhau.
2.10. Hồ Tam Hoa
Hồ Tam Hoa, Mỏ Nhài, Lạng Sơn
Nếu muốn, các bạn có thể sẽ được trải nghiệm không gian mênh mông rộng lớn của các hồ nước ngọt trong vùng như hồ Vũ Lăng, hồ Tam Hoa, cùng trải nghiệm bơi bè mảng, câu cá giải trí và thưởng thức các món ẩm thực đặc sắc. Nếu quý khách đến Bắc Sơn vào mùa quýt chín (tháng 10, 11 âm lịch) có thể ghé thăm các vườn quýt đặc sản mọc sai trĩu cành trong các lân, lũng, thoải mái lựa chọn và mua về làm quà.
2.11. Hồ Pác Mỏ
Từ trung tâm thị trấn huyện Bắc Sơn theo đường liên xã khoảng 2 km các bạn sẽ đến hồ Pác Mỏ thuộc xã Hữu Vĩnh. Đây là di tích danh thắng được xếp hạng cấp tỉnh năm 2002. Không chỉ là một hồ thủy lợi đơn thuần cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt, hồ Pác Mỏ có cảnh quan đẹp tự nhiên, nguồn nước trong xanh không bao giờ vơi cạn, mặt hồ yên bình soi bóng những mái nhà sàn thấp thoáng bên tán cây cổ thụ dưới chân núi. Ngay bên hồ là giếng Bó Loóng, truyền thuyết kể rằng ngày xưa vùng này vốn khô cạn, vào một ngày mưa to gió lớn có con trâu thần trắng đã húc vào vách đá bên hồ, chui vào lòng núi mà tạo ra khe giếng này. Từ đó đến nay khe giếng Bó Loóng nước chảy suốt quanh năm cung cấp nước cho vùng hồ mênh mông. Điều kỳ lạ là trước mỗi ngày mưa to nước chảy ra từ giếng sẽ đổi màu trắng đục như nước vo gạo, nguồn nước khe đặc biệt lạnh không biết xuất xứ chảy từ đâu, lạnh đến nỗi giữa trưa hè một người khỏe mạnh cũng không thể ngâm mình trong nước đến 5 phút.
Cách hồ Pác Mỏ khoảng 200 mét là hang Thắm Hoài. Hang có 2 tầng, nhiều nhũ đá hình thù kỳ lạ rất đẹp mắt, có những cột đá vôi cao hàng chục mét sừng sững cạnh lối đi. Hang nằm lưng chừng núi, dài hơn 700 mét, trần hang cao rộng có nhiều thạch nhũ muôn màu sắc. Sau năm 1964 Đài Phát thanh Khu tự trị Việt Bắc đã sơ tán từ Đồng Hỷ (Thái Nguyên) về hang Thắm Hoài hoạt động để tránh các cuộc ném bom phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hiện nay tại tầng 1 và phía ngoài hang còn dấu tích khu xưởng máy và khu nhà ở của cán bộ nhân viên nhà Đài khá nguyên vẹn.
Từ hồ Pác Mỏ, các bạn tiếp tục theo đường liên xã khoảng 7 km đến xã Tân Lập khám phá hang Lân Pán và hang Rù Hon. Hang Lân Pán thuộc một trong 12 điểm thuộc An toàn khu Bắc Sơn đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Tại đây ngày 23/6/1941 đoàn cán bộ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Trần Đăng Ninh…dự Hội nghị Trung ương 8 từ Pác Bó (Cao Bằng) trở về đã ở lại hang trong một thời gian để chỉ đạo phong trào cách mạng Bắc Sơn, truyền đạt nội dung Nghị quyết Trung ương 8 về đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống phát xít Nhật – Pháp, đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đến trung tâm xã Tân Lập, các bạn tạm dừng phương tiện, chuẩn bị đồ nghề leo núi để thám hiểm và chinh phục hang Rù Hon. Mặc dù địa hình hang Rù Hon rất hiểm trở nhưng bên trong lòng hang cảnh quan vô cùng hùng vĩ, có nhiều vòm cao hơn 150 mét, ăn sâu dường như bất tận trong lòng núi đá. Hệ thống thạch nhũ nguyên sơ mang hình những thác đá, trống đá, đầu rồng, tiên ông, ao tiên, cung nữ, thạch quái…muôn hình vạn trạng với đủ cung bậc mầu sắc, hấp dẫn sự trải nghiệm và khám phá.
3. Du lịch Cao Lộc
3.1.Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị Quan
Cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị là một trong những cửa khẩu quan trọng của nước ta nằm trên biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Có thể nói, cửa khẩu quốc tế này là một trong những cầu nối giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển mối quan hệ kinh tế với nước bạn láng giềng – Trung Quốc. Tại đây, cột mốc được cắm ở phía Việt Nam là cột mốc 1116 và phía Trung Quốc là 1117. Cả 2 bên đều có gắn quốc huy của cả 2 dân tộc.
Cửa khẩu này nằm cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng chừng hơn 17km, các thủ đô Hà Nội hơn 170km về hướng Đông Bắc.
3.2.Đền Mẫu Đồng Đăng
Đền Mẫu Đồng Đăng là một trong những điểm đến không thể bỏ lỡ khi du lịch Lạng Sơn. Đền tọa lạc ở trên một ngọn núi cao nằm tại trung tâm thị trấn Đồng Đăng cách cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị hơn 4km. Nơi đây là ngôi đền có giá trị không chỉ về mặt kiến trúc, tôn giáo tín ngưỡng mà còn là nơi để cầu nguyện vô cùng linh thiêng của tất cả người dân trong tỉnh cũng như du khách tứ phương.
Đền Mẫu Đồng Đăng được xây dựng với 5 gian thờ: phía trong cùng là Tam bảo, đây là nơi thờ Phật Chuấn Đề cùng với Phật bà Quan Âm. Phía ngoài Tam bảo là Tam tòa Thánh mẫu, đây là nơi thờ Mẫu đệ nhất Thượng thiên, Mẫu đệ nhị Thượng ngàn và Mẫu đệ tam Thoải phủ. Gian thờ tiếp theo chính là gian thời Sơn trang thờ Chúa Thượng ngàn ở giữa với 2 bên là Chầu Mười Đồng Mỏ và Chầu Chín. Chính điện của đền Mẫu là nơi thờ Chúa Liễn với 2 bên là Chầu Bơ và Chầu Lục. Gian cuối cùng nằm bên trái chính điện thờ Chầu đệ tứ Khâm sai.
Đền Mẫu Đồng Đăng được xây dựng với 5 gian thờ chính. Ngoài ra, tại đền còn thờ các quan của Trần Triều Đức Đại Vương cùng các thánh cô, thánh cậu,... Đến với nơi đây, bạn có thể gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng của mình đến các đấng linh thiêng hy vọng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cầu chúc sức khỏe cho gia đình và người thân. Đặc biệt vào mùng 10 tháng Giêng Âm lịch tại đền Mẫu diễn ra lễ hội xuân đầu năm vô cùng thú vị cùng với rất nhiều những trò chơi như múa võ, múa sư tử, thi đấu các môn thể thao,...
3.3.Đỉnh Mẫu Sơn
Khi du lịch Lạng Sơn mà không ghé đến đỉnh Mẫu Sơn thì thật tiếc nuối! Đây được xem là một trong những đỉnh núi nhất định phải ghé tới khi du lịch Lạng Sơn nữa đấy! Với diện tích rộng hơn 5000ha, nơi đây có hệ thực vật và động vật vô cùng phong phú. Nơi đây được ví như Sapa thứ 2 của Tây Bắc, đến đây bạn có thể khám phá những nét văn hóa độc đáo của bà con nơi đây như dân tộc Dao, Tày, Nùng,...
Nằm cách trung tâm thành phố Lạng Sơn 30km về phía Đông Bắc, đỉnh Mẫu Sơn được bao bọc xung quanh bởi bao gồm một quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ với đỉnh cao nhất là Phia Po (1.541 m) – nơi đặt cột mốc 42, biên giới Việt Trung. Với đặc điểm không khí rất trong lành thoáng đãng, đỉnh núi quanh năm mây phủ rất phù hợp cho các chuyến đi nghỉ dưỡng. Khi mùa đông tới, có những năm nhiệt độ ở Mẫu Sơn xuống tới nhiệt độ âm và có thể có tuyết rơi, băng đá. Du lịch Mẫu Sơn, du khách thưởng thức các món đặc sản tuyết sơn, gà lôi sáu cựa, chanh rừng, ếch hương, rượu Mẫu Sơn…
Chinh phục đỉnh Mẫu Sơn để khám phá “chốn thiên đường giữa nhân gian” này thì còn gì tuyệt vời bằng phải không?
3.4. Ga Đồng Đăng
Sau chuyến tàu đặc biệt chở lãnh đạo Triều Tiên đến Đồng Đăng tháng 2/ 2019, ga này đã được nhiều người biết đến. Nhưng hiếm ai biết rằng ga Đồng Đăng đã được Pháp sớm khởi xây để viện binh phòng thủ biên giới và trở thành chứng nhân bao thời cuộc máu lửa.
Ga Đồng Đăng là một nhà ga xe lửa tại thị trấn Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn. Được kết nối với Trung Quốc tại khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Nhà ga là điểm kết thúc tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng và được nối với ga Bằng Tường thuộc tuyến đường sắt Hành Dương - Bằng Tường của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
3.5.Pháo đài Đồng Đăng
Pháo đài Đồng Đăng được xây dựng vào trước năm 1945 trên một ngọn núi mà khi đứng trên đây, bạn có thể bao quát được toàn bộ những khu vực xung quanh phía bên dưới.
Trong lịch sử, pháo đài này chính là nơi giúp quân và dân tiêu diệt được kẻ địch, phát hiện ra nhiều đợt tấn công của địch và cũng là nơi trú ẩn an toàn của không biết bao nhiêu đồng bào ta trong cuộc chiến khốc liệt.
3.6.Chùa Bắc Nga
Chùa Bắc Nga tọa lạc tại xã Gia Cát, nằm trên một sườn đồi thoải, lưng dựa vào núi, mặt tiền hướng ra phía đường quốc lộ và nhìn thẳng ra sông Kỳ Cùng. Theo phong thủy, người xưa vẫn gọi đây là thế “Rồng châu hổ phục” của chùa. Chùa trước kia vẫn còn hay có tên gọi là chùa Tiên Nga.
Đến đây, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng ngôi chùa với những nét kiến trúc cổ kính mà còn được ngắm nhìn một thiên nhiên hoang sơ, vô cùng thanh tịnh tại chùa. Lễ hội chùa Bắc Nga thường được tổ chức là ngày 15 tháng Giêng hàng năm, mọi người vẫn gọi lễ hội này là hội Bản Ngà – trùng với hội chùa Tam Thanh.
3.7.Nhà bia Thủy Môn Đình
Nhà bia Thủy Môn Đình là một di tích có nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Hiện di tích nằm ở vị trí đầu đường vào thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Nếu tính theo chiều từ thành phố Lạng Sơn lên thì di tích nằm ở bên phía tay phải, cách mặt đường 1A chưa đầy 50m. Bia Thủy Môn Đình là một tấm bia cổ, có niên hiệu Cảnh Trị thứ 18 (1670) ghi công của Hữu Đô Đốc Thao Quận công Nguyễn Đình Lộc, có công trạng, sự nghiệp gắn liền với vùng đất, quê hương Xứ Lạng.
Bia được tìm thấy khá dày dặn, có bệ, cao hơn đầu người. Khi được phát hiện, bia nằm giấu kín trong đám bụi cây. Mặt lưng bia có ba chữ Thủy Môn Đình rất to. Thủy Môn Đình do quan Đô Tổng binh, Bắc quân Đô đốc phủ Lạng Sơn Nguyễn Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị bách niên dưới thời Lê Trịnh. Mở đầu bia viết đại ý “ta nhờ tổ tông tích thiện, nên từ lúc còn trẻ đã được theo vua giết giặc lập công, được phong chức giữ nơi bờ cõi, cửa ngõ của sự bang giao, nơi hai nước có sứ giả đi lại và văn thư giao dịch. Nhờ gặp thời Hoàng Lê thịnh trị, vạn đẹp của Chúa, thu phục được “bát man”, được giao trọng trách trông giữ miền quan ải, trách nhiệm nặng nề, vì thế lập bia để con cháu trông gương mà bắt chước, báo đền ơn vua, lộc nước”.
Ở giữa bia có một bài Minh, tức là bài tóm tắt chủ ý của bia dưới dạng câu ngắn có vần: “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan. Thạch bích hoàn vũ. Uyên quân giới phiên. Đồng Đăng linh ấp”. Có nghĩa: Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Việt Nam, là ải quan trấn giữ phương Bắc. Vách đá giữa trời đất, quận sâu nơi biên giới. Ấp thiêng xứ Đồng Đăng.
Sự có mặt của hai chữ Việt Nam trong tấm bia biên giới có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì vị trí tấm bia này chỉ cách ải Nam Quan (nay là cửa quan Hữu Nghị) có 2 km. Nó lại dựng lên bởi “Bắc quân Đô đốc xứ Lạng Sơn” nên tấm bia có ý nghĩa hành chính rõ rệt. Như vậy từ hơn 3 thế kỷ trước đây, tên gọi Việt Nam đã chính thức nằm trên tấm bia hiên ngang nơi quan ải.
3.8.Chợ Đồng Đăng
Nhắc đến chợ Đồng Đăng là nhắc đến địa chỉ mua bán tấp nập với vô số những mặt hàng phong phú đa dạng không chỉ cả trong nước mà còn có cá sản phẩm của Trung Quốc. Đừng nghe vậy mà bạn nghi ngờ về các sản phẩm này nhé! Không phải những đồ Trung Quốc đều có chất lượng không tốt đâu, nếu biết cách chọn lựa thì bạn còn có thể chọn những sản phẩm cực tốt với giá cả rất rẻ nữa đấy!
3.9. Khu du kích Ba Sơn
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, Ba Sơn anh dũng là tên gọi ca ngợi về Khu du kích mà ở đó, mỗi chiến công gắn liền với thắng lợi của quân và dân Lạng Sơn trên con đường lửa số 4, đẩy quân viễn chinh tới thảm bại tại mặt trận biên giới 1950. Góp phần quan trọng giải phóng hoàn toàn Lạng Sơn.
Khu du kích Ba Sơn bao gồm 4 xã là Cao Lâu, Công Sơn, Xuất Lễ và Mẫu Sơn. Xã Xuất Lễ là xã trung tâm trong khu di tích.Tại đây, mỗi cảnh vật đều gắn liền với những chiến công và câu chuyện lịch sử của quân và dân Lạng Sơn. Ngày mùng 6 tháng 2 âm lịch hàng năm, tại đây nhân dân đều tổ chức ngày hội chiến thắng của khu du kích Ba Sơn thu hút đông đảo người dân và du khách khắp mọi nơi ghé tới !
4. Du lịch Chi lăng
4.1.Ải Chi Lăng
Nằm ở xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn có quy mô hoành tráng, đồ sộ và địa thế hiểm yếu. Ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của Thăng Long xưa kia trước những cuộc viễn chinh xâm lược phương Bắc.
Ải Chi Lăng là một thung lũng đẹp, hình bầu dục, nằm giữa hai dãy núi đá Kai Kinh và dãy núi Bảo Đài. Xung quanh là những ngọn núi cao, có dòng sông Thương hiền hòa chảy qua, nơi đây có hai cửa: phía Bắc gọi là Qủy Môn Quan – phía Nam gọi là Ngõ Thề.
Con đường đi qua Ải Chi Lăng.
Ải Chi Lăng đã gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt. Chắc hẳn rằng mỗi khi nhắc về địa danh này, trong lòng mỗi người lại dấy một niềm tự hào mãnh liệt về trí tuệ hơn người và tinh thần yêu nước của bao thế hệ người Việt Nam.
Chi Lăng là ải có quy mô hoành tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dãy núi đá Kai Kinh ở phía tây và dãy núi Bảo Ðài ở phía đông. Hai đầu ải có những ngọn núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Ðại Huề…
Vào những năm trước và sau công nguyên, ải Chi Lăng đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ 14, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đã hạ một câu thơ bất hủ: “Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời”.
Năm 1077, phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp phò mã Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan bọn xâm lược Tống lần thứ hai.
Thế kỷ 13, cả thế giới kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi cánh quân Nguyên qua ải Chi Lăng đã bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng…
Thế kỷ 15, ải Chi Lăng lại ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng – chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ 18, dưới thời Hoàng đế Quang Trung – một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh… Vào các thế kỷ 19 và 20, ải Chi Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta.
4.2. Núi mặt quỷ
Núi có hình mặt quỷ nằm ở thôn Quán Thanh (xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, Lạng Sơn). Chính vì vậy mà trước đây nơi này có tên gọi là Quỷ Môn Quan, tức là cửa mặt quỷ. Ngọn núi này có điểm đặc biệt là ở giữa khoảng xanh của cây cỏ, lộ lên một hình thù rất giống mặt của một con quái vật khổng lồ. Nhìn từ xa, khuôn mặt này có đầy đủ cả mắt, mũi.
Một điều thú vị là, dù được coi là mặt quỷ, nhưng người dân nơi đây không coi đấy là biểu tượng của cái ác, mà ngược lại, người dân cho rằng “mặt quỷ sẽ bảo vệ cuộc sống bình an cho dân làng”.
4.3.Hang Gió
Hang Gió còn có các tên gọi: Động Thông Gió hay Mai Sao Phong động. Khu di tích Hang Gió thuộc Lũng Khòm (thôn Sao Thượng B), xã Mai Sao, huyện Chi Lăng. Khu di tích danh thắng Hang Gió bao gồm một vùng rộng lớn, với nhiều núi dá, hang đá tự nhiên thuộc dãy núi Bó Nhàn từ thôn Sao Thượng tới trung tâm xã Mai Sao. Trong đó hang động nổi bật nhất là hang Gió. Đây là hang động có quy mô lớn, chiều dài hàng trăm mét, rộng đến 50 – 70 m, chiều cao có chỗ lên đến 30 – 40 m. Hang có 2 tầng và một tầng hầm, ít ngách phụ, trong hang it hiểm trở đi lại dễ dàng. Sàn hang tương đối bằng phẳng, vòm hang cao rộng, thoáng mát mang dáng dấp vòm nhà thờ. Vách hang có nhiều nhũ đá mang hình thù kỳ dị.
Đến thăm khu danh thắng hang Gió trước tiên phải thăm Hang Gió (động Thông Gió) bước lên 392 bậc hình chữ chi nối dài mới đến được Hang Gió, sau đó mới thăm các hang khác xung quanh như: Hang Công Chúa (tức hang Sân Khấu), hang Hoàng Tử (tức hang Sáng), hang Thiên Đình, hang Dơi, động Thủy Tiên (tức hang Nước).
5. Du lịch Tràng Định
5.1.Di tích Pác Lùng – Ký Làng
Pác Lùng, Ký Làng là một địa danh thuộc thôn Nà Han, xã Tri Phương, huyện Tràng Định. Nơi đây ngày 11/4/1938 đã diễn ra thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Tràng Định dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Văn Thụ.
Khu di tích Pác Lùng - Ký Làng là nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Tràng Định dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Chi bộ chọn hang Cốc Mười làm cơ sở in ấn và hoạt động cách mạng bí mật. Sự ra đời của chi bộ cộng sản ở Tri Phương là mốc son trong lịch sử huyện Tràng Định, đồng thời sự kiện cũng đánh dấu bước phát triển quan trọng trong phong trào cách mạng ở Lạng Sơn.
Sau khi được thành lập, chi bộ đã tuyên truyền, vận động nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại ách thực dân, kiên cường bám đất, tập trung phát triển kinh tế.
5.2. Hang Cốc Mười
Hang Cốc Mười ở thôn Nà Han, xã Tri Phương, Tràng Định là cơ sở In ấn tài liệu và là địa điểm hoạt động bí mật của chi bộ Phi Mỹ những năm trước cách mạng tháng Tám. Sau khi thành lập (4- 1938) và đi vào hoạt động, chi bộ Phi Mỹ đã đặt cơ sở In tại hang Cốc mười do đồng chí Quốc Bình (Giáo Lợi) phụ trách. Toàn bộ tài liệu, báo chí, truyền đơn, văn bản hoạt động của chi bộ Phi Mỹ đều từ cơ sở này mà ra.
6. Khu du lịch sinh thái cộng đồng Hữu Liên
Là điểm nối giữa hai huyện Hữu Lũng – Bắc Sơn với tuyến giao thông liên huyện khá hoàn chỉnh, ngoài sự đa dạng về sinh học của khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, đến với xã Hữu Liên các bạn sẽ được khám phá loại hình du lịch sinh thái và du lịch khám phá cảnh quan tự nhiên.
Không chỉ đa dạng về sinh cảnh với khu rừng đặc dụng quí hiếm, những hang động núi đá và thác nước hùng vĩ, Hữu Liên còn là điểm du lịch sinh thái, cộng đồng hấp dẫn với nhiều giá trị về di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội và các trò chơi dân gian. Dạo quanh xã Hữu Liên, nổi bật giữa những thung lũng lúa nước bằng phẳng là những nếp nhà sàn rộng rãi, thoáng mát nằm lưng chừng mây núi của rừng già tựa như một bức họa thủy mặc làm say đắm lòng người.
7. Đền Bắc Lệ
Đền Bắc Lệ nằm ở huyện Hữu Lũng là một quần thể di tích nằm trên một quả đồi giữa khu Nam của Phố Bắc Lệ . Hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác thời gian ra đời của một ngôi đền, song căn cứ vào hai văn bia còn (1919 và 1933) đền Bắc Lệ từ đầu thế kỷ XX đến nay đã trải qua 5 lần tu sửa tôn tạo. Theo văn bia khắc năm Khải Định thứ 4 (1919) thì trước đó đền chỉ là một am thờ nhỏ, hay bị hỏa hoạn, sau đó nhân dân đã cung tiến xây dựng thành một ngôi nhà 3 gian gồm 3 cung: Đệ Nhất – Đệ Nhị – Đệ Tam (cung cấm) ngôi đền mang bóng dáng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Trung quốc. Trong đợt sửa chữa lần 2 (1933) và lần 3 (1940) ngôi nhà 3 gian cũ đuợc quay lại và xay thêm cung Đệ Tam ở phía sau. Một cổng Tam quan to cao được xây dựng ở phía ngoài Tam cấp lên đền. Sau đó do các điều kiện, nguyên nhân khác đền Bắc Lệ còn qua một số lần sửa chữa.
Tuy trải qua nhiều lần tu bổ, nhưng ngôi đền hiện nay vẫn giữ được dáng vẻ cổ truyền, diện mạo đền hiện nay ngoài đền chính còn có một số gian thờ khác, bên phía mặt tiền của đền là một gian nhà nhỏ khoảng 10m², thờ Chầu Bé Bắc Lệ, phái trước bên trái phía Đông Bắc của của mặt chính diện đền có một bàn thời Ngũ Hổ ngoài trời. Đền chính vẫn nằm trên vị trí cũ, đó là một dãy nhà 3 gian xây bằng gạch lợp ngói tây, cột gỗ, ba gian nhà này đồng thời là 3 cung, diện tích 126m².
Mặc dù đã bị thất lạc nhiều song đền vẫn giữ được một số di vật cổ và thêm các hiện vật mới được cung tiến. Hiện nay đền có 19 pho tượng lớn nhỏ chủ yếu bằng chất liệu gỗ, nhiều y môn sặc sỡ treo trên các lối đi có hai văn bia và nhiều hoành phi câu đối.
Cũng giống như bất kỳ một đền thờ Mẫu nào đền Bắc Lệ thời Công Đồng, Tứ Phủ, thờ tất cả các vị Chư Linh ở bốn miền Vũ Trụ, thế nhưng ở đây đặc biệt coi trọng các vị thần linh gắn liền với địa phương như Mẫu Thượng Ngàn, Chầu Bé, Cô Bé… những vị thần cung cấp ban phát của cải vô biên nơi núi rừng cho con người, và trở thành biểu tượng của sự sống vĩnh hằng. Chầu Bé theo quan niệm của người dân ở đây, vốn là người có thật quê quán ở Bắc Lệ. Tại đây Chầu Bé có thể thay mặt Mẫu để thực hiện các ý đồ sáng tạo của các Mẫu.
Bên cạnh Trung tâm là Mẫu còn có các thần linh hóa thân của Mẫu như Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu Bà, Tứ Phủ Quan Hoàn, Cô, Cậu.. được thể hiện qua việc bài di tích. Lễ hội chính của đền Bắc Lệ được tổ chức vào ngày 20 tháng 9 âm lịch hàng năm. Việc tế lễ, rước sách tổ chức rất linh đình, thu hút một số lượng đông đảo người dân tham dự.